Thứ Tư, 13/08/2025
Dòng sự kiện
  • Trang chủ

Chế biến sâu - giải pháp nâng cao giá trị gia tăng ngành rau quả

Ngày đăng: 31/12/2018
Lượt xem: 645
Trước thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam gặp khó ở nhiều thị trường, do những rào cản về chất lượng cũng như yêu cầu về nguồn gốc, nhãn mác. Nhiều thời điểm sản lượng trái cây vào vụ thu hoạch không được bao tiêu dẫn đến thực trạng dư thừa, phải giải cứu. Do đó, việc đẩy mạnh chế biến rau quả sẽ giải quyết được tất cả những hạn chế trên.

Chế biến dừa xuất khẩu tại Bến Tre

Hiện trạng hoạt động chế biến rau quả của Việt Nam

Hiện cả nước có 145 doanh nghiệp chế biến rau, hoa quả, chiếm 2,19% số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Công suất trung bình đạt 1,2 triệu tấn/27 triệu tấn sản lượng trung bình mỗi năm, như vậy, chỉ đạt xấp xỉ 4,4%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới, như Philippin tỷ lệ chế biến đạt 28%, Thái Lan 30%, Mỹ 65%...

Các doanh nghiệp chế biến trái cây quy mô công nghiệp, tập trung ở 28 tỉnh, thành phố. Các tỉnh phía Bắc có 71 doanh nghiệp (49%), miền Trung có 18 doanh nghiệp (12,4%), miền Nam có 56 doanh nghiệp (38,6%). Những địa phương có từ 10 doanh nghiệp trở lên là: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Lâm Đồng và TP. Hồ Chí Minh.

Sản lượng trái cây lớn, mặc dù xuất khẩu trái cây cũng tăng trưởng mạnh nhưng thời gian gần đây, việc xuất khẩu trái cây Việt Nam gặp khó ở nhiều thị trường, do những rào cản về chất lượng cũng như yêu cầu về nguồn gốc, nhãn mác. Nhiều thời điểm sản lượng trái cây vào vụ thu hoạch không được bao tiêu dẫn đến thực trạng dư thừa, phải giải cứu. Do đó, việc đẩy mạnh chế biến trái cây sẽ giải quyết được tất cả những hạn chế trên.

Thời gian qua, tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước đã hình thành nên nhiều cơ sở, nhà máy chế biến trái cây như tại Sơn La, Gia Lai… Đặc biệt, từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều địa phương trên cả nước đã thu hút được đầu tư vào ngành chế biến rau quả, trong đó, phải kể đến là Sơn La, Hải Dương, Gia Lai, Tây Ninh, Bến Tre, và một số Nhà máy chế biến rau quả xuất khẩu được hoàn thành đầu tư từ đầu năm 2018 phải kể đến như:

+ Tổ hợp sản xuất và chế biến hoa quả xuất khẩu đặt tại huyện Đức Hòa, Long An do Công ty Cổ phần Nafoods Group làm chủ đầu tư, có tổng vốn 410 tỷ đồng, khánh thành tháng 4/2018. Tổ hợp rộng 6,5 ha, với hệ thống nhà xưởng, máy móc theo công nghệ của Châu Âu gồm dây chuyền cô đặc công suất 7.000 tấn/năm và dây chuyền IQF công suất 2 tấn sản phẩm/giờ.

+ Giai đoạn 1 Dự án nhà máy chế biến, đông lạnh trái cây và rau củ quả tại xã Giao Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do Công ty TNHH Chế biến nông sản Thuận Phong làm chủ đầu tư, đưa vào hoạt động trong tháng 8/2018. Nhà máy xây dựng trên diện tích hơn 6 ha, được trang bị nhiều máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài, công suất chế biến 6.000 - 10.000 tấn nguyên liệu/tháng, vốn đầu tư 500 tỷ đồng.

+ Trung tâm Chế biến rau quả Doveco tại Tây Nguyên do Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Dao (Doveco) làm chủ đầu tư sẽ chính thức đưa vào hoạt động vào tháng 12 tới đây, tăng năng lực cho xuất khẩu rau quả.

Trung tâm Chế biến Rau quả Gia Lai được Doveco khởi công hồi đầu năm nay, có quy mô lớn tại Cụm Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp huyện Mang Yang, Gia Lai, có diện tích gần 6 ha. Đây là một trung tâm chế biến rau quả khép kín, bao gồm từ việc liên kết phát triển sản xuất, thu mua nguyên liệu, chế biến tinh, chế biến sâu và hệ thống kinh doanh bán hàng trong nước và xuất khẩu.

Dự án gồm tổ hợp 3 nhà máy: nhà máy chế biến nước quả cô đặc và puree, công suất thiết kế 10.000 tấn/năm; Nhà máy chế biến rau quả đông lạnh, công suất thiết kế 10.000 tấn sản phẩm/năm và nhà máy chế biến rau quả, rau đồ hộp, công suất thiết kế 10.000 tấn sản phẩm/năm.

Như vậy, tổng công suất của cả 3 nhà máy Doveco Tây Nguyên lên đến 30.000 tấn rau củ quả/năm với các sản phẩm như: nước ép trái cây cô đặc, rau quả đông lạnh và đóng hộp…

Khi Dự án Doveco Tây Nguyên hoàn thành, sẽ bổ sung đáng kể năng lực sản xuất, chế biến rau củ xuất khẩu, dự kiến, doanh thu xuất khẩu từ 3 nhà máy này có thể đạt 40-50 triệu USD/năm.

+ Một dự án chế biến sâu ngành rau quả do Công ty cổ phần Lavifood đầu tư tại tỉnh Tây Ninh được đưa vào vận hành ngay trong tháng 11/2018.

Với tổng vốn đầu tư gần 1.800 tỷ đồng, trên diện tích 15 ha, Nhà máy Tanifood Tây Ninh sử dụng công nghệ sản xuất của Đức, Italia, Nhật Bản…

Nhà máy Tanifood sẽ bao gồm dây chuyền sản xuất trái cây, rau quả tươi, xử lý nhiệt có công suất 10.000 tấn năm; dây chuyền sản xuất đông lạnh 20.000 tấn/năm; dây chuyền sản xuất sấy khô, sấy dẻo, sấy thăng hoa 5.000 tấn/năm; dây chuyền sản xuất nước trái cây cô đặc 6.000 tấn/năm; dây chuyền sản xuất nước Juice bao gồm đóng lon 144 triệu lon/năm, đóng chai PET 230 triệu chai/năm, đóng chai thủy tinh 72 triệu chai/năm, đóng hộp giấy Tetrapak 144 triệu hộp/năm.

Ngoài nhà máy Tanifood Tây Ninh, một Dự án quy mô lớn khác của Công ty cổ phần Lavifood đầu tư tại phía Bắc nhằm tăng lực cho ngành sản xuất rau quả xuất khẩu cũng đã được khởi động. Theo đó, Công ty Cổ phần Lavifood và Công ty Nông nghiệp và thủy sản ILMI (Hàn Quốc) đang chuẩn bị đầu tư nhà máy chế biến rau quả công suất 15.000 tấn thành phẩm/năm, tổng vốn đầu tư 1.500 tỷ đồng tại Khu công nghiệp VSIP Hải Dương.

Trong kế hoạch mở rộng đầu tư, Công ty Cổ phần Lavifood tiết lộ sẽ đầu tư tiếp 3- 4 nhà máy chế biến rau quả ở các vùng như Tây Ninh, Long An… để nâng cao tính chuyên nghiệp trong xuất khẩu và tiếp cận các khách hàng nhập khẩu lớn.

Như vậy, với việc nhiều dự án chế biến rau quả quy mô lớn được xây dựng như tổ hợp dự án Doveco Tây Nguyên, Nafoods Group đầu tư nhà máy ở Tây Ninh… sẽ bổ sung đáng kể vào năng lực chế biến rau quả của Việt Nam thời gian tới.

Cần đẩy mạnh chế biến sâu để tăng giá trị gia tăng ngành rau quả

Theo thống kê, hiện nay, 80% sản lượng trái cây Việt Nam đang được tiêu thụ trong nước chủ yếu ở dạng quả tươi, trong đó, 90% được tiêu thụ ở các chợ truyền thống. Các kênh phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện ích, cửa hàng trái cây cao cấp, mới chỉ chiếm 10% lượng trái cây tiêu thụ nội địa.

Mặc dù trái cây Việt Nam đã có mặt ở 60 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng sản lượng trái cây xuất khẩu chỉ chiếm 10% tổng sản lượng trái cây sản xuất hàng năm của cả nước. Số lượng còn lại chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa.

Do đó, việc giữ vững thị trường nội địa không kém phần quan trọng so với xuất khẩu trước sự thâm nhập của các sản phẩm trái cây các nước khi các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia có hiệu lực. Theo đó, các doanh nghiệp không trong nước không chỉ chú trọng sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, việc xây dựng vùng nguyên liệu trái cây, liên kết nông dân sản xuất trái cây, tập huấn kỹ thuật trồng trọt tiên tiến, an toàn kỹ thuật trước hết vẫn là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, giữ vững lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam đối với trái cây Việt Nam.

Đối với xuất khẩu, nhìn vào tỷ trọng các loại rau quả xuất khẩu thì Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu rau quả thô hoặc sơ chế, các loại rau quả đã qua chế biến xuất khẩu chỉ chiếm tỷ trọng dưới 10%.

Riêng năm 2018, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm rau quả chế biến của Việt Nam chiếm khoảng 12,35% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam, tăng nhẹ 1,6% so với cùng kỳ năm 2017.

Một số sản phẩm rau quả chế biến đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong 10 tháng năm 2018 phải kể đến là sản phẩm cơm dừa đạt 62,5 triệu USD, sản phẩm hạnh nhân đạt 22,4 triệu USD, sản phẩm chanh leo đạt 22,1 triệu USD, sản phẩm hạt mè đạt 20,5 triệu USD, sản phẩm dưa chuột đạt 20,4 triệu USD, sản phẩm dứa đạt 18,8 triệu USD... Đáng chú ý, một số sản phẩm rau quả chế biến xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng rất mạnh trong 10 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm 2017 như: sản phẩm cơm dừa tăng 119,7%, sản phẩm hạnh nhân tăng 190,9%, sản phẩm từ xoài tăng 176,7%, sản phẩm từ quả óc chó tăng 363,1%, sản phẩm từ thanh long tăng 169,1%, và đặc biệt sản phẩm từ nho tăng 1.031,7%,  sản phẩm từ Macadamia tăng 1.446,2% và sản phẩm từ nhàu tăng 11.926,5%...

Các thị trường tiêu thụ chính sản phẩm rau quả chế biến của Việt Nam là Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu đạt 81,5 triệu USD, Hàn Quốc đạt 54,4 triệu USD, Nhật Bản đạt 40,4 triệu USD, Mỹ đạt 36,3 triệu USD, Hà Lan đạt 22 triệu USD và Nga đạt 21,5 triệu USD... Đáng chú ý, xuất khẩu các sản phẩm rau quả chế biến của Việt Nam sang một số thị trường tăng mạnh trong 10 tháng năm 2018 so với cùng kỳ năm 2017, trong đó: xuất khẩu sang thị trường Ai Cập tăng 113,2%, Ả rập Xê út tăng 162%, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng 312,1%, Thổ Nhĩ Kỳ tăng 184,4%, Gioocdani tăng 345,1%, Li Băng tăng 202,7%, Kô-oét tăng 911,2%, Ma rốc tăng 290%, Braxin tăng 678,3%, Irắc tăng 168,8%, Campuchia tăng 298,7%...

Một số thị trường tiêu thụ sản phẩm rau quả chế biến của Việt Nam 10 tháng năm 2018

Thị trường

10 tháng năm 2018 (nghìn USD)

10 tháng năm 2017 (nghìn USD)

10 T/2018 so với 10 T/2017 (%)

Trung Quốc

       81.582

     68.020

19,9

Hàn Quốc

       54.464

     40.938

33,0

Nhật Bản

       40.443

     42.734

-5,4

Mỹ

       36.359

     35.186

3,3

Hà Lan

       22.089

     31.960

-30,9

Nga

       21.556

     21.724

-0,8

Ai Cập

       15.041

       7.055

113,2

Đài Loan

       13.611

     16.529

-17,6

Ả Rập Xê út

         8.975

       3.425

162,0

Malaysia

         7.038

       5.459

28,9

Australia

         6.511

       5.041

29,2

UAE

         5.742

       1.393

312,1

Canada

         5.636

       4.550

23,9

Thái Lan

         5.218

       5.725

-8,9

Đức

         4.706

       6.515

-27,8

Hồng Kông

         4.386

       2.801

56,6

Nam Phi

         4.229

       3.103

36,3

Thổ Nhĩ Kỳ

         3.322

       1.168

184,4

Gioocdani

         3.135

          704

345,1

Angiêri

         3.095

       1.812

70,8

Ấn Độ

         2.434

       2.892

-15,8

Pháp

         2.337

       1.739

34,3

Li Băng

         2.172

          717

202,7

Singapore

         2.054

       2.219

-7,5

Tây Ban Nha

         2.007

       1.777

13,0

Bỉ

         1.981

       1.932

2,5

Kô-oét

         1.976

          195

911,2

Marôc

         1.793

          460

290,0

Philippin

         1.777

       1.322

34,4

Braxin

         1.709

          220

678,3

Anh

         1.675

       2.342

-28,5

Irắc

         1.586

          590

168,8

Israel

         1.349

       1.084

24,4

Đan Mạch

         1.302

          951

36,8

Campuchia

         1.249

          313

298,7

Lít va

         1.160

       1.278

-9,2

Ghinê

         1.160

          908

27,8

Italia

         1.076

       1.248

-13,8

Mông Cổ

         1.068

          922

15,8

Chilê

         1.021

          547

86,7

Libyan Arab Jamahiriya

         1.000

          370

170,2

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan

Với xu thế phát triển nhu cầu xã hội ngày càng cao, dự kiến, thị trường rau quả sẽ tiếp tục tăng trưởng và trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam.

Để tận dụng được tiềm năng, lợi thế, thời gian qua, ngành nông nghiệp đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo các trục sản phẩm gắn với vùng miền. Bên cạnh đó là việc phát triển ứng dụng nhiều thành tựu công nghệ để nâng cao chất lượng, năng suất sản phẩm, xây dựng được chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm dù chưa tạo được thương hiệu mạnh, nhưng sẽ tạo ra những động lực, tạo lập được một nền sản xuất có chứng nhận.

Dù vậy, thành tựu đạt được của ngành rau quả Việt vẫn chưa xứng tầm với tiềm năng. Vẫn còn nhiều tồn tại cần tập trung giải quyết. Trong đó, cùng với việc thiếu các bộ giống tốt, cơ giới hóa trong sản xuất còn chậm, mới được thực hiện ở khâu làm đất, còn khâu chăm sóc, bảo quản sau thu hoạch vẫn còn rất yếu. Ngành công nghiệp bảo quản chế biến sau thu hoạch còn chậm phát triển, ít được quan tâm dẫn đến tỷ lệ thất thoát rất lớn, chất lượng sản phẩm bị giảm rất nhiều trong quá trình lưu thông và chưa tạo ra được giá trị gia tăng trong chế biến sâu.

Hiện nay, doanh nghiệp đầu tư vào chế biến rau quả ở Việt Nam còn hạn chế bởi Việt Nam chưa hình thành được những vùng chuyên canh, thâm canh lớn, tập trung, trong khi doanh nghiệp một khi đã đầu tư máy móc cần số lượng nguyên liệu chế biến khá nhiều. 

Ngoài ra, một trong những thách thức mà ngành công nghiệp chế biến trái cây đang phải đối mặt là công nghệ chế biến chưa đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm tạo ra lợi nhuận bền vững. Giải pháp hàng đầu được các chuyên gia đưa ra chính là sự thay đổi áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, đầu tư dây chuyền sản xuất tiên tiến nhằm tăng tính hiệu quả và đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Việt Nam xác định trái cây là ngành hàng còn nhiều tiềm năng, dư địa để phát triển. Theo đó, định hướng chung toàn ngành đặt ra là tiếp tục tập trung đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào khâu sản xuất cây ăn quả nhằm tăng năng suất, sản lượng và nâng cao chất lượng. Bên cạnh đó, tăng cường phát triển công nghệ bảo quản, chế biến sâu các sản phẩm từ cây ăn quả với các sản phẩm chế biến chính gồm các loại quả đông lạnh, đóng hộp, sấy, nước quả tự nhiên, nước quả cô đặc… nhằm gia tăng giá trị sản xuất, mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu.

Mới đây, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc (FAO) nhận định, thị trường rau quả toàn cầu có thể tăng trưởng 8% trong giai đoạn 2017 - 2020. Các quốc gia đang tăng cường tiêu thụ trái cây nhiệt đới, trái mùa, hữu cơ. Đây được xem là cơ hội lớn đối với xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Do đó, muốn duy trì tốc độ tăng trưởng ngành rau quả như thời gian qua, cần gia tăng chất lượng sản phẩm trái cây thông qua việc đẩy mạnh hoạt động chế biến.

Việc đầu tư cho chế biến sâu sẽ là bước đột phá để giải quyết vấn đề thị trường của nông sản Việt Nam. Theo nhận định, xuất khẩu rau quả sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới, và một trong những yếu tố đóng góp vào sự gia tăng này là các dự án đầu tư quy mô nghìn tỷ của các doanh nghiệp lớn như Doveco, Lavifood… Với tốc độ tăng trưởng như hiện nay và những lợi thế khả năng Việt Nam có được, ngành rau quả hoàn toàn có thể sớm cán mốc xuất khẩu đạt 10 tỷ USD trong năm 2025.

Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại lĩnh vực công nghiệp chế biến, bảo quản và giảm tổn thất sau thu hoạch; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến sâu, chế biến tinh, chế biến sản phẩm ăn liền để nâng cao giá trị gia tăng; hỗ trợ và tạo điều kiện để các nhà máy chế biến rau, quả, sản phẩm chăn nuôi quy mô lớn, công nghệ hiện đại khởi công và đi vào hoạt động…

Nguồn: VITIC

Tin liên quan
Liên kết website